Lịch sử chiến đấu Mikoyan-Gurevich MiG-15

MiG-15UIT tại Muzeyon Heyl ha-Avir, Israel

MiG-15 lần đầu tiên bắn hạ máy bay trên không vào ngày 13 tháng 6 năm 1952, nhưng nó còn để lại nỗi sợ hãi sau nhiều năm sau đó[cần dẫn nguồn]. Nạn nhân đầu tiên của MiG-15 là chiếc Douglas DC-3 của Không quân Thụy Điển đã bay do thám trên Biển Baltic.

Tại Triều Tiên

Mikoyan-Gurevich MiG-15 được xuất khẩu rộng rãi, phiên bản xuất khẩu cho Trung Quốc là MiG-15bis năm 1950. MiG-15 của Trung Quốc là những chiếc MiG đầu tiên trực tiếp chống lại những máy bay phản lực khác của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Triều Tiên. Loại cánh mới của MiG-15 đã chứng tỏ khả năng của mình thế hệ đầu tiên của máy bay phản lực cánh xuôi. Loại máy bay phản lực cánh thẳng của không quân Hoa Kỳ như Lockheed P-80 Shooting Star, Gloster Meteor; loại sử dụng động cơ pít tông như North American P-51 MustangVought F4U Corsair (mặc dù F-80 là máy bay bắn hạ MiG-15 đầu tiên), những loại này lần lượt bị MiG-15 hạ gục một cách dễ dàng.

Khi chiếc MiG-15 được đưa vào hoạt động tại Triều Tiên vào tháng 11 năm 1950, nó vượt hơn tất cả những máy bay đang hoạt động trong các lực lượng thuộc Liên Hiệp Quốc. Cuộc không chiến đầu tiên xảy ra ngày 1 tháng 11 năm 1950 khi 8 chiếc MiG-15 của Liên Xô đánh chặn 15 chiếc North American P-51 Mustang của Mỹ và trung úy phi công Liên Xô Fiodor Chizh đã bắn hạ phi công Aaron Abercrombie.[2] Vài ngày sau, trung úy phi công Semyon Jominich (hay còn được đánh vần là Khominich[3]) của Liên Xô đã trở thành phi công đầu tiên trên thế giới dùng máy bay phản lực bắn hạ máy bay phản lực khi anh tiêu diệt chiếc Lockheed P-80 Shooting Star của phi công Hoa Kỳ Frank Van Sickle trong 1 cuộc hỗn chiến giữa 10 chiếc Lockheed P-80 Shooting Star và 3 chiếc MiG-15.

Cho đến khi North American F-86 Sabre - máy bay phản lực đầu tiên của Không quân Hoa Kỳ được sử dụng trong Chiến tranh Triều Tiên thì lợi thế trên không của hai bên mới cân bằng. Chiếc F-86 Sabre được Không quân Hoa Kỳ đưa vào phục vụ từ năm 1949, về bản chất nó là máy bay North American FJ Fury của hải quân được lắp đôi cánh mới vào. Tháng 12 năm 1950, Không quân Hoa Kỳ bắt đầu sử dụng phi cơ North American F-86 Sabre tại Triều Tiên. Các phi cơ MiG-15 có thể bay cao hơn, 50.000 ft so với 42.000 ft (12.800 m) của F-86, cho thấy lợi thế rõ ràng lúc khởi đầu của không chiến của MiG-15. Trong lúc bay đường trường thì tốc độ tối đa của chúng bằng nhau - khoảng 660 dặm Anh/giờ (1.060 km/h). Phi cơ MiG-15 có thể vượt lên cao tốt hơn; trong khi phi cơ "Sabre" có thao tác bay tốt hơn và có thể bổ nhào xuống dưới tốt hơn. Trong trường hợp bị bám đuôi, MiG-15 có thể thoát khỏi F-86 bằng cách lao vọt lên độ cao trên 42.000 ft, khiến F-86 không thể đuổi theo. Về mặt vũ khí, phi cơ MiG mang hai khẩu pháo 23 mm và một đại bác 37 mm chuyên dùng để bắn hạ máy bay cỡ lớn, so với phi cơ Sabre có sáu khẩu súng máy nòng cỡ 0,5 inch (12,7 mm) chuyên dùng để bắn hạ máy bay cỡ nhỏ. Như vậy, F-86 của Mỹ có thể bắn nhanh và mang nhiều viên đạn hơn, trong khi MiG-15 có thể bắn ra những phát đạn có sức công phá mạnh hơn. Về mặt bảo trì, đây là một yếu điểm của F-86 đối với MiG-15, phần lớn phi cơ F-86 của Mỹ đã bị giữ dưới mặt đất để sửa chữa trong suốt cuộc chiến.[4]

Dẫu cho F-86 Sabre (Lưỡi kiếm) không phải là đối thủ của MiG-15 trong một số thông số hiệu năng bay, nhưng với chiến thuật tốt và phi công được huấn luyện kỹ, các phi công Sabre của Mỹ cũng đạt được tỷ lệ bắn hạ MiG được lái bởi các phi công Trung Quốc Triều Tiên, vốn chỉ được huấn luyện chưa lâu và còn thiếu kinh nghiệm. Tuy nhiên, khi chiến đấu với các phi công Liên Xô có nhiều kinh nghiệm và biết tận dụng lợi thế của MiG-15, hiệu suất chiến đấu của F-86 bị sụt giảm đi rất nhiều.

MiG-15 đang tấn công phi đội B-29 Superfortress ở Triều Tiên, năm 1951Một chiếc B-29 Superfortress rơi tại Iruma, Nhật Bản do bị MiG-15 bắn trúng ở Triều Tiên (ngày 9/11/1950)[5]

Nhiệm vụ chính của MiG-15 không phải là chiến đấu với những chiếc tiêm kích F-86 của Mỹ, mà là chặn đánh các phi đội máy bay ném bom hạng nặng B-29 Superfortress của Không lực Hoa Kỳ. Thứ 5 ngày 12 tháng 4 năm 1951 được gọi là ngày thứ năm đen đủi của phi công Mỹ khi 3 phi đội MiG-15 (2 phi đội của Liên Xô, 1 phi đội của Trung Quốc, tổng cộng 44 chiếc) tấn công 3 phi đội ném bom Boeing B-29 Superfortress (48 chiếc) cùng với 18 máy bay F-86 Sabre, 24 chiếc Lockheed P-80 Shooting Star và 54 chiếc Republic F-84 Thunderjet bay theo bảo vệ. 12 chiếc B-29, 4 chiếc tiêm kích bị bắn rơi, nhiều chiếc khác bị bắn hỏng, trong khi không có chiếc MiG nào của Liên Xô và Trung Quốc bị hạ. Các phi công Liên Xô cho rằng: Nếu máy bay Mỹ không vội quay đầu về phía bờ biển, nơi các phi cơ của Liên Xô không được phép bay vào thì tổn thất của không quân Mỹ sẽ còn trầm trọng hơn nữa. Sau đó phía Mỹ đã công bố con số thiệt hại là 10 máy bay ném bom B-29, gồm 3 chiếc rơi và 7 chiếc bị hư hại nặng không thể sửa chữa. Không quân Hoa Kỳ tuyên bố để tang một tuần lễ cho các phi công tử trận và ngày 12 tháng 4 trở thành "ngày thứ Năm đen tối". Các phi vụ của Mỹ bị dừng lại trong khoảng ba tháng sau đó, buộc các lực lượng Hoa Kỳ phải thay đổi chiến thuật ban đêm trong các nhóm nhỏ.[6]

Sau đó sáu tháng, không chiến tái diễn ác liệt. Cựu phi công Kramarenko cho biết: Một số phi công Liên Xô tuyên bố đã có tới 20 chiếc B-29 bị MiG-15 bắn rơi trong tuần lễ không chiến ác liệt từ 20/10/1951 tới 27/10/1951. Trong đó, ngày 23/10/1951 tiếp tục trở thành "ngày thứ ba đen tối" của Không quân Mỹ khi họ bị tiêm kích MiG-15 bắn hạ một nửa số pháo đài bay B-29 Superfortress. Để thực hiện cuộc oanh tạc vào Namsi, Mỹ đã điều động lực lượng rất lớn: khoảng 200 tiêm kích hộ tống và 21 máy bay ném bom B-29. Đã có 58 chiếc MiG-15 xuất kích chặn đánh phi đội Mỹ. Những chiếc MiG-15 chia làm nhiều biên đội nhỏ (mỗi biên đội 2 chiếc), đánh bổ nhào từ trên cao, tấn công cùng lúc từ nhiều hướng để tận dụng ưu thế cơ động. Chiến thuật cơ động nhanh đã phát huy hiệu quả, làm tan rã đội hình của Không quân Mỹ. Trong cuộc không chiến này, 10 pháo đài bay B-29 của Mỹ đã bị tiêu diệt và nhiều máy bay khác bị hư hỏng, 4 chiếc tiêm kích Mỹ cũng bị hạ, trong khi phía Liên Xô chỉ mất duy nhất một tiêm kích MiG-15.[7]

Những tổn thất nặng nề của lực lượng máy bay ném bom hạng nặng B-29 vào cuối tháng 10/1951 đã buộc Bộ Tư lệnh Không lực Viễn Đông (Hoa Kỳ) phải hủy bỏ các cuộc ném bom vào ban ngày của B-29 và chỉ thực hiện các phi vụ ném bom vào ban đêm, dù điều đó làm giảm đi nhiều độ chính xác của những trận ném bom[8]

Trong nhiều năm, các lực lượng Liên Hiệp Quốc đã nghi ngờ là có sự tham dự của các phi công Liên Xô vào chiến tranh Triều Tiên, nhưng Liên Xô luôn phủ nhận. Khi cuộc Chiến tranh Lạnh chấm dứt, nhiều phi công Liên Xô mà đã tham dự vào cuộc chiến tranh, đã bắt đầu tiết lộ vai trò của họ.[9] Nhiều máy bay của Liên Xô được tô điểm bởi nhãn hiệu của Bắc Triều Tiên hay Trung Quốc, còn phi công thì mặc quân phục Bắc Triều Tiên hay dân sự để cải trang nguồn gốc của họ. Để liên lạc bằng truyền thanh, họ được đưa những thẻ cho những từ ngữ không quân khác nhau, có chữ Triều Tiên và cách đọc bằng chữ cái Kirin.[9] Những lẩn tránh này không giấu giếm được lâu dài do những khẩn trương trong khi chiến đấu trên không, các phi công Liên Xô thường phát hiệu lệnh hoặc văng tục bằng tiếng mẹ đẻ, mà phi công Mỹ có thể nghe được. Cho tới khi những cuốn sách được ấn hành gần đây bằng tiếng Trung Quốc hay tiếng Nga và các tác giả từ các nước mà trước đây thuộc Liên Xô như Zhang Xiaoming, Leonid Krylov, Yuriy Tepsurkaev và Igor Seydov, người ta biết rất ít về các phi công thực sự bay.

Mong muốn có một chiếc MiG-15 nguyên vẹn để nghiên cứu, người Mỹ đã đưa ra giá trị tiền thưởng 100.000 USD và cấp quy chế tị nạn chính trị cho phi công nào đào thoát được với máy bay của mình. Cuối cùng, một phi công Bắc Triều Tiên, trung úy No Kum-Sok đã giành lấy giải thưởng bằng việc hạ cánh chiếc MiG-15 của mình xuống căn cứ không quân Kimpo, Hàn Quốc, vào tháng 9 năm 1953, cho phép người Mỹ đánh giá bước đầu chi tiết của chiếc máy bay. Chiếc máy bay mà No Kum-Sok lái để trốn sang Hàn Quốc hiện đang được trưng bày tại bảo tàng không quân quốc gia Hoa Kỳ ở gần Dayton, Ohio.

Chiếc MiG-15 đã được nghiên cứu tỉ mỉ và được bay thử nghiệm bởi nhiều phi công, trong đó có cả phi công thử nghiệm nổi tiếng của Mỹ là Chuck Yeager. Yeager đã miêu tả trong cuốn tự truyện của mình rằng MiG-15 có khiếm khuyết nghiêm trọng trong cách điều khiển, và đã xác nhận điều đó trong chuyến viếng thăm Liên Xô. Các phi công Liên Xô hoài nghi việc Yeager đã bổ nhào nó, giả thuyết máy bay mất lái khi bổ nhào ngày nay đã không còn đúng. Khi các phi công Liên Xô nghe được câu chuyện này - được Yeager xác nhận - họ đã giận dữ và phản đối kịch liệt. Trong thực tế, mặc dù MiG-15 bị châm chọc trong vấn đề điều khiển nhưng trên nguyên lý - nếu vượt quá giới hạn bay khi bổ nhào các phanh hãm khí động lực sẽ tự động mở ra tại vạch đỏ giới hạn, ngăn chặn máy bay bị mất điều khiển. Câu chuyện của Yeager hiện nay đã được xác nhận là sai.

MiG-15bis trong bảo tàng Không quân quốc gia Mỹ

Các số liệu từ các nguồn của Liên Xô thống kê rằng trong chiến tranh Triều Tiên, MiG-15 của không quân Liên Xô đã thực hiện 60.450 phi vụ ban ngày và 2.779 phi vụ ban đêm, tham gia 1.683 trận không chiến ban ngày và 107 trận không chiến ban đêm. MiG-15 được tuyên bố đã bắn rơi 1.097 máy bay đối thủ, bao gồm 647 chiếc F-86, 185 chiếc F-84, 118 chiếc F-80, 28 chiếc F-51, 11 chiếc F-94, 65 chiếc máy bay ném bom hạng nặng B-29, 26 chiếc Gloster Meteors và 17 máy bay các loại khác. Đổi lại, có 335 chiếc MiG-15 của không quân Liên Xô đã bị mất trong không chiến hoặc bị tai nạn, khiến 120 phi công tử trận[10] Một thống kê khác của Liên Xô cho rằng MiG-15 của họ đã bắn rơi 1.038 máy bay đối thủ, bao gồm 595 chiếc F-86, 178 chiếc F-84, 103 chiếc F-80, 23 chiếc F-51, 10 chiếc F-94, 66 chiếc máy bay ném bom hạng nặng B-29, 28 chiếc Gloster Meteors và hàng chục máy bay các loại khác[11]

Phía Trung Quốc bị mất 224 chiếc MiG-15, 3 chiếc La-11 và 4 chiếc Tu-2 trong toàn cuộc chiến, 116 phi công Trung Quốc đã tử trận, đổi lại các phi công Trung Quốc tuyên bố đã bắn rơi 211 chiếc F-86, 72 chiếc F-84 và F-80, và 47 máy bay các loại khác[12]

Không quân Mỹ thống kê tại Triều Tiên họ bị mất 1.466 máy bay trong chiến đấu và 516 máy bay do các nguyên nhân ngoài chiến đấu (chưa tính thiệt hại của các lực lượng không quân đồng minh của Mỹ như Anh, Úc, Nam Phi...). Trong số 1.466 máy bay bị mất trong khi bay chiến đấu, 550 chiếc bị pháo phòng không bắn rơi, 139 chiếc bị MiG bắn rơi, 305 chiếc không rõ bị MiG hay pháo phòng không bắn rơi, 472 chiếc là "rơi bởi các nguyên nhân khác". Chia theo loại máy bay thì tổn thất bao gồm 78 chiếc máy bay ném bom hạng nặng B-29 Superfortress, 228 chiếc máy bay ném bom hạng trung B-26 Invader, 332 chiếc P-51 Mustang, 368 chiếc F-80, 358 chiếc F-84, 250 chiếc F-86... cùng nhiều loại máy bay khác.[13]

Trong các cuộc không chiến ở Triều Tiên, 67 phi công Liên Xô, 7 phi công Trung Quốc và 2 phi công Triều Tiên đã được ghi nhận đạt cấp Aces (bắn hạ từ 5 máy bay địch trở lên). Đứng đầu bảng là phi công Liên Xô, thiếu tá Yevgeni G. Pepelyayev với 22 chiến công. Kế tiếp là đại tá Nikolai Sutyagin, ông đã bắn rơi 21 máy bay đối phương (bao gồm 3 chiếc F-86, 1 F-84 và 1 Gloster Meteor) trong vòng chưa đầy 7 tháng (sau đó ông được rút về làm công tác huấn luyện). Còn phi công Trung Quốc có thành tích cao nhất là Châu Bảo Tùng với 9 chiến công. Phi công Triều Tiên có thành tích cao nhất là Kam Den Dek, hạ được 8 máy bay địch.

Các phi công MiG-15 có thành tích nổi bật trong không chiến ở Triều Tiên:

... 61 phi công khác hạ được từ 5-9 máy bay địch.

Các nước khác

Sau hiệp định đình chiến Triều Tiên, một vài chiếc MiG-15 của Không quân Bắc Triều Tiên vẫn còn tiếp tục bị bắn hạ bởi những chiếc F-86 trong phi đội máy bay ném bom và chiến đấu số 67 của Không quân Hoa Kỳ do vô tình bay qua giới tuyến. Suốt thời gian còn lại của những năm 1950, những máy bay MiG-15 của Liên Xô và các nước trong khối hiệp ước Vác-xa-va đã ngăn chặn những máy bay do thám của Không quân Mỹ và đã bắn hạ vài chiếc. Còn những chiếc MiG-15 của Không quân quân giải phóng nhân dân Trung Hoa (PLAAF) lại thường xuyên chạm trán với máy bay của Đài LoanHoa Kỳ trong các trận chiến. Vào năm 1958, một chiếc máy bay chiến đấu của Đài Loan đã dùng tên lửa AIM-9 Sidewinder để bắn hạ một chiếc MiG-15 của PLAAF trong một trận không chiến.

MiG-15 còn phục vụ trong lực lượng không quân các quốc gia Ả Rập như trong Cuộc khủng hoảng kênh Suez năm 1956 và Chiến tranh Sáu ngày năm 1967.

Việt Nam vận hành một số MiG-15 và MiG-15UTIs, nhưng chỉ dùng để đào tạo. Không có chiếc MiG-15 nào đã tham gia không chiến chống lại máy bay Mỹ trong cuộc Chiến tranh Việt Nam.

Phi hành gia nổi tiếng của Liên Xô Yuri Alekseievich Gagarin đã hy sinh trong khi đang điều khiển máy bay huấn luyện MiG-15UTI vào tháng 3 năm 1968. Có thể do tầm nhìn bị hạ chế và mất liên lạc với trung tâm điều khiển bay mặt đất, chiếc máy bay đã đâm xuống. Nhưng một số tài liệu lại cho rằng chiếc MiG-15UTI do Yuri Gagarin lái đã bị mất lái do bay quá gần một chiếc Sukhoi Su-15 cũng đang bay trong khu vực đó.